Khu tập thể - Tìm lại giấc mơ thiên đường
- Tình trạng: Còn hàng
LỜI ĐẦU SÁCH
Sau khi đi tìm những giá trị chung về sự hợp lí đô thị của xã hội công nghiệp – dịch vụ của thế kỉ 20, đã và đang tồn tại sự phản ứng và thất vọng bởi “sự mầu nhiệm của kĩ thuật” và “sự mạo danh về tăng trưởng”, được coi là có thể giải quyết được mọi vấn đề của loài người. Sự ỷ lại vào kĩ thuật và tăng tốc xây dựng còn để lại môi trường kiến trúc đơn điệu, cổ suý cho giao thông cơ giới, tiêu thụ tài nguyên và xã hội tiêu dùng, giống hệt nhau từ Tây sang Đông. Trong bối cảnh đó, thử tìm lại những vệt đi đã mờ của lịch sử để tìm lại lí tưởng cao đẹp của kiến trúc xã hội qua thời kì nở rộ các khu tập thể.
Sau thế chiến II, trước thách thức dân số thành thị tăng nhanh, và cần cải thiện điều kiện sống, vệ sinh cho số đông, Le Corbusier là người đã thành công trong việc xây dựng ba triệu căn hộ cho tư nhân trong vỏn vẹn ba thập niên, với một khao khát: Tạo không gian xã hội hài hoà, tiện nghi và bình đẳng cho tất cả mọi thành phần công dân, bằng cuộc cách mạng kiến trúc trong những khu nhà tập thể. Le Corbusier đã đưa ra phương thức xây dựng kiểu công nghiệp hoá các khu ở tập thể với năm nguyên tắc của chủ nghĩa công năng, với những cửa sổ mở rộng để đem ánh sáng và không khí vào căn hộ, bỏ các vách ngăn, đưa luôn tiện nghi hiện đại vào phòng bếp, buồng tắm. Đặc biệt, với lí thuyết “thành phố trong thành phố”, các thiết kế khu nhà tập thể có đầy đủ chức năng công cộng, như một thành phố thu nhỏ.
Khởi đầu là Khu tập thể (KTT) Cité Radieuse ở Marseille (1952) với tên gọi “Đơn vị ở” - Unité d'Habitation, Le Corbusier đã khởi xướng và thành công khi xây dựng biểu tượng mới của chủ nghĩa chức năng với các căn hộ tràn ánh sáng, trường mẫu giáo, sân chơi, cửa hàng, quán ăn, khách sạn và một trung tâm sáng tác nghệ thuật,… đã hé mở một cấu trúc đô thị tương lai của loài người.
Không ít quốc gia châu Âu đã quay lưng với dạng nhà tập thể. Đằng sau nó là những câu chuyện lo lắng bình dân hoá vẻ đẹp đô thị châu Âu cổ kính, văn hoá và lối sống, những giá trị đã hằn vào tâm thức tập thể.
Bất ngờ nhất là Khu tập thể lại phổ cập rộng khắp trên lãnh thổ Việt Nam xa xôi, có thể sự thiếu nhà ở do chiến tranh liên miên, có thể do ưa thích tập trung thành cụm gợi cho số đông những người bỏ làng ra phố (đi vào hiện đại) kiểu cư trú làng xã cộng đồng gần gũi. Hà Nội xây tới 64 khu, Hải Phòng với 220 nhà tập thể, Thanh Hoá, Vinh,… rồi Sài Gòn xưa với hàng trăm chung cư cũ nội thành, cư xá quân nhân như nấm tại Đà Nẵng, Nha Trang, Thủ Dầu Một, tồn tại vững chãi cho đến tận hôm nay. Chưa ai lí giải, chắc chỉ có riêng cuốn sách lí thú của nhiều tác giả đã đưa người đọc vào một không gian đa diện (hay một không gian di sản đô thị Việt thế kỉ 20?) khi chạm vào mọi ngóc ngách của đời sống thị dân, khi lùi lại nhiều thập kỉ. Đủ để hoài niệm, cảm nhận và thấu hiểu, cho ta cái nhìn của người trong cuộc, đan xen với nhiều chiều kích của những người đi ngang qua, hoặc ghé nhờ kiếm chút chở che, và cả chuyên gia tìm trải nghiệm, nhà nghệ thuật đi tìm cảm xúc,… Khu tập thể, đối với cư dân của nó – những người trong cuộc, đã trở thành một kí ức tập thể của tuổi trẻ, tình người và chốn đi về trong tâm tưởng.
Cuốn sách Khu tập thể – Tìm lại giấc mơ thiên đường cần tiếp cận bằng con mắt của người trong cuộc, của thời đại và thấu cảm sâu sắc. Giống như ở khắp nơi trên trái đất – hôm qua cũng như hôm nay, và có lẽ cả sau này nữa – văn hoá và kiến trúc nằm trong một thể thống nhất nhưng mang tính nhị nguyên. Không gian kiến trúc vừa bao chứa mọi hoạt động của văn hoá con người nhưng đồng thời, nó vừa là sản phẩm của văn hoá con người sáng tạo ra. Bởi vậy, không một hoạt động kiến trúc nào có thể tách khỏi môi trường văn hoá của nó, và Khu tập thể như một bộ phận hợp thành của văn hoá thị dân, vừa là sản phẩm của văn hoá ấy. Buổi đầu xuất hiện dưới dạng chủ nghĩa chức năng, với trường hợp ở Việt Nam, Khu tập thể lại trở thành một không gian đô thị đẫm tính nhân văn. Chỉ có thể lí giải do sự cộng sinh giữa văn hoá và kiến trúc, thị dân Việt Nam hình thành từ cội nguồn cộng đồng làng xã, chia sẻ lợi ích, sống theo các “hương ước tự quản” láng giềng (neighborhood), tương thân thương ái, để tối giản mà sống,… Chỉ họ, mới có thể sáng tạo mô hình khu ở cho thấy tính hệ thống (sau hơn bảy mươi năm tồn tại), khởi lập các trật tự về HÌNH THỂ, KHÔNG GIAN, CHỨC NĂNG, LỐI SỐNG, SINH KẾ VÀ CHÍN DẦN ĐỂ TRỞ THÀNH VĂN HOÁ, từ cuộc sống tối giản vươn lên. Có thể mơ đến một “căn tính Việt” trong dòng chảy thị thành, ở khả năng biến đổi Không gian ở đơn thuần trở thành Không gian văn hoá, Không gian xã hội, và hơn nữa, một Không gian gợi cảm nghệ thuật? Khu tập thể Việt Nam, theo các tác giả đã vượt quá giấc mơ làm cuộc cách mạng xã hội thông qua kiến trúc trong “Luận cương về kiến trúc” nổi tiếng của Le Corbusier (1930).
Theo dòng chảy của các tác giả, Khu tập thể có một đời sống lịch sử khá thú vị và khác biệt với những loại hình khác trong đô thị Việt. Là Di sản lịch sử – các tác giả đi tìm lại giấc mơ được ở nhà tập thể – thiên đường thời nghèo khó. Khi đó, Khu tập thể với bao khát vọng của lớp người không có nhà ở, đến cuộc cách mạng căn hộ khép kín với khu vệ sinh “xí máy”, rồi Nhà nước và tư nhân (nhượng bộ nhau) trên những giằng co mở rộng, tiện nghi hoá, riêng tư hoá, trải qua thời gian của vài thế hệ mà thành. Ngôi nhà mơ ước với những xí máy riêng, chuồng cọp lao ra không gian, hàng sida, lối đi với cánh cửa riêng tư trong thiết chế cứng đơ của chủ nghĩa tập thể, các tác giả Trần Hậu Yên Thế, Đinh Hồng Hải, Phạm Long, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Trương Quý,... đã khắc nên những thuật ngữ “hồn cốt” thị dân ở trên, chỉ ra căn tính nhận dạng loại hình Khu tập thể của số đông, ấm nồng hơi thở đồng loại giữa thế kỉ 20 và cho rằng nó đáng là một Di sản sống – căn cước văn hoá của thị dân đương đại. Là Đô thị nhân văn – Khu tập thể như một ảo ảnh của ngàn ánh sao khi còn là một đứa trẻ, những kí ức tình bạn thơ bé thắp sáng tâm hồn, những cầu thang luôn không nhìn rõ bậc,… Nhưng ở đó là tình người, ánh mắt nhân hậu của người già, tiếng bi bô của con trẻ, những sẻ chia sát vách,… đã làm cho nó trở thành nơi chốn thân thương, làm ấm áp tâm hồn như khu trại của ánh sáng, của không gian cộng đồng không thể phai mờ với những người trong cuộc (Các tác giả Nguyễn, Trương, Đinh Phạm, Nguyễn Trần, Trần H.Y.T, Phạm Long, Phạm M.Q). Cuối cùng Khu tập thể hiện lên như một Giấc mơ thiên đường – Những hơi thở nhẹ nhàng mong làm mới lại nơi chốn, gợi mở khả năng của nó thành làng trong phố, trở thành nơi tụ hội đầy dự cảm của những người làm sáng tạo, đồng hiện các mảnh ghép phác hoạ nó vào tương lai bình an cho những người trong cuộc – thiên đường của những ao ước nén chặt, hẳn thi vị hơn những phương án xoá sổ Khu tập thể với lạnh lùng thực tại. (Nguyễn Trương Quý, Dương Tất Thành, Trần Hậu Yên Thế, Phạm Long, Lê Phước Anh, Phạm Minh Quân, Thế Sơn).
Khu tập thể cũng có linh hồn riêng của nó, mang cả cố tật của thị dân Việt và khả năng thích ứng vô song để biến hình hài chung cư thành các dãy phố hàng chen vai thích cánh mà cha ông họ truyền lại, hay cơi nới gấp đôi gấp ba diện tích với những ngón nghề xây thủ công, tình nghĩa láng giềng và nhịp điệu của những “chuồng cọp phi cấu trúc” lơ lửng trên cao. Hình hài ấy đã lấy được sự ngưỡng mộ của những lữ khách tha hương từng chiêm ngưỡng nó. Độc nhất vô nhị. Một văn hoá thị dân Việt “linh hoạt” như nước, để linh động, để thích ứng với các đổi thay thời cuộc, vốn luôn thảm đạm ở đất nước này.
Bỏ qua bề ngoài Khu tập thể như những lập thể của lộn xộn, bằng cái nhìn sâu lắng bạn có thể thấy muôn hình vẻ đẹp của sinh hoạt, của đời sống số đông thị dân Việt. Khu tập thể âm thầm tích luỹ những giá trị đời sống thường thường để “nở hoa” – kết tinh thành nghệ thuật, như một không gian của nghệ thuật tối giản, tinh khiết đủ bao chứa biết bao phận người quẩn quanh nơi chốn chật, vẫn có thể tự vẽ lên kí tự của riêng mình,...
Gấp lại cuốn sách, vẫn trăn trở Khu tập thể tồn tại hay không tồn tại. Các tác giả vẫn để lại nhiều cái nhìn còn bỏ ngỏ…
Hà Nội, ngày 8/8/2025
PGS.TS.KTS. Nguyễn Hồng Thục
-
0 Bình luận






